Thể thao thực sự đã trở thành một trong những ngành kinh tế quan trọng của nhiều quốc gia trên thế giới trong thời gian gần đây. Thể thao đã, đang và sẽ là một trong những ngành kinh tế thu hút nguồn nhân lực, vật lực đáng kể trong nền kinh tế quốc dân. Xu thế chung của thể thao thế giới đó chính là quá trình xây dựng, hoàn thiện mô hình, cơ chế, cách thức quản lý mới. Đồng thời từng bước tạo điều kiện và thúc đẩy quá trình thương mại hóa.
Từ sự thay đổi về nhận thức
Trong một thời gian rất dài, ngay cả ở các nước Châu Âu, thể thao và kinh tế được coi là 2 lĩnh vực hoàn toàn biệt lập với nhau. Người ta đã từng quan niệm rằng, thể thao là sở thích, là nơi để con người sử dụng thời gian nhàn rỗi. Theo họ, thể thao không có một điểm nào chung với các hoạt động kinh tế, với hoạt động nghề nghiệp hay hoạt động thương mại. Đến nay, mọi thứ đã thay đổi căn bản và được khẳng định: Hoạt động thể thao có thể đem lại nhiều tiền, tất nhiên trong một môi trường và điều kiện cạnh tranh vô cùng khốc liệt, nhưng những tài nguyên, nguồn nhân lực thể thao truyền thống đang ngày cạn kiệt, bị hạn chế.

Thể thao là lĩnh vực hoạt động cần thiết không chỉ đối với các vận động viên (VĐV), huấn luyện viên (HLV) nhà nghề, mà còn là lĩnh vực hoạt động cần thiết đối với các nhà kinh tế, nhà quản lý, luật sư, nhà xã hội học… Hoạt động thể thao động chạm tới tất cả các lĩnh vực như: thể thao trình diễn, thể thao nhà nghề, liên đoàn, hiệp hội thể thao, câu lạc bộ thể thao, thể thao thương mại, cơ chế quản lý, điều hành hoạt động thể thao từ trung ương đến địa phương.
Thể thao cần thiết đối với mọi người dân nhưng không phải ai cũng có những hiểu biết căn bản, cụ thể về cơ chế tài chính, cách thức quản lý và điều hành các hoạt động thể dục thể thao (TDTT), công tác marketing hay những am hiểu về các sản nghiệp thể thao và văn hoá thể thao.
Trên thực tế, các hình thức thể hiện khác nhau của hoạt động TDTT là vô cùng phong phú và đa dạng, có mối liên hệ mật thiết và sự tác động qua lại hữu cơ với nền kinh tế, cơ chế quản lý và điều hành; Bên cạnh đó, có rất nhiều điểm tương đồng trên phương diện lý luận giữa hoạt động TDTT với hoạt động kinh tế, hoạt động quản lý và điều hành. Do vậy, có thể áp dụng những lý luận chung ấy vào các hoạt động TDTT.
Chúng ta có đủ căn cứ thực tiễn và lý luận để khẳng định, kinh tế thể thao (KTTT) là một ngành khoa học không chỉ nghiên cứu thuần tuý các yếu tố kinh tế trong thể thao, mà ở cả các vấn đề khác như: xã hội học, tâm lý học, luật học. Các tổ chức thể thao phải được nghiên cứu, xem xét trong bối cảnh kinh tế. Hiển nhiên, cho đến nay, những vấn đề trong KTTT vẫn còn rất nhiều điều cần nghiên cứu và đòi hỏi những luận giải có căn cứ khoa học và mang tính hệ thống. Vấn đề đầu tiên phải kể đến, đó chính là: quản lý thể thao, nguồn nhân lực thể thao, tài trợ thể thao.

Ở Việt Nam, KTTT đang trong giai đoạn xuất hiện, hình thành như một khoa học cần thiết để vận dụng, sử dụng, khai thác có hiệu quả những nhân lực, vật lực, thị trường thể thao đầy tiềm năng đã được xây dựng, tích luỹ từ các thế hệ trước; Chứng tỏ được khả năng dự trữ nguồn nhân lực thể thao và kết quả cuối cùng là tăng cường và bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân.
Hiện tại, khi người dân càng ngày càng có xu hướng tìm kiếm các biện pháp để thư giãn, ngày càng có mong muốn phát hiện ra những năng lực bản thân, năng khiếu thể thao, kiếm tìm những biện pháp bảo vệ và tăng cường sức khoẻ, tạo ra trạng thái tâm lý thoải mái, xung mãn. TDTT và các hình thức thể hiện cụ thể của nó bao gồm hệ thống những tri thức hình thành, xuất hiện trong mối liên hệ chặt chẽ với các giai đoạn phát triển của bất kỳ xã hội hiện đại nào.

Nếu chúng ta mong muốn cho các thế hệ mai sau có sức khoẻ tốt thì ngay bây giờ cần phải đào tạo đội ngũ chuyên gia có trình độ và hiểu biết về thể thao, quan niệm và nhận thức đúng đắn về các hoạt động thể thao có ý nghĩa vô cùng quan trọng, quan trọng hơn những cái mà chúng ta vẫn thường đề cao – đó là thành tích, là những tấm huy chương. Đúng vậy! nói tới thể thao, nhất là thể thao đỉnh cao, đi liền với nó là thành tích, là huy chương, là các giải đấu lớn nhưng đồng nhất giữa chúng với nhau là một sai lầm tệ hại. Thể thao – là một bộ phận của kinh tế và được tổ chức, quản lý, điều hành. Nó đòi hỏi một đội ngũ chuyên gia, phương pháp luận và các hình thức tương thích với nó.
Thể thao chuyên nghiệp – là một trong những loại hình hoạt động kinh doanh với mục đích, thoả mãn lợi ích của các tổ chức thể thao, VĐV chuyên nghiệp, đối tượng chọn thể thao là nghề nghiệp của mình và cuối cùng đáp ứng nhu cầu thưởng thức trình diễn, thi đấu thể thao của nhân dân; VĐV – là người tham gia tập luyện và thi đấu thể thao một cách hệ thống.
Cơ cấu tổ chức thể thao chuyên nghiệp chịu sự quy định bởi tính đặc thù của mỗi môn thể thao khác nhau. Tổ chức thể thao chuyên nghiệp có thể là thành viên hiệp hội, liên hiệp, liên đoàn thể thao chuyên nghiệp, của các câu lạc bộ thể thao chuyên nghiệp, các đội thể thao; VĐV thể thao chuyên nghiệp có hợp đồng hoạt động thể thao theo thể lệ và quy định của hiệp hội thể thao chuyên nghiệp.

Để đại diện và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình, VĐV chuyên nghiệp, HLV theo quy định của luật liên bang “về các hiệp hội nghề nghiệp, quyền lợi của họ và sự đảm bảo hành nghề” có thể liên kết cùng nhau trong tổ chức nghiệp đoàn.
Sở hữu những VĐV tài năng, trong nhiều trường hợp đều đem lại lợi nhuận đáng kể cho câu lạc bộ nói chung và chủ sở hữu câu lạc bộ nói riêng. Những khoản lợi nhuận có thể được tạo ra bởi quá trình sử dụng trực tiếp các hoạt động của các VĐV tài năng đang có hợp đồng hoạt động TDTT với câu lạc bộ, hoặc được tạo ra bởi các hợp đồng chuyển nhượng VĐV.
VĐV nhà nghề và các câu lạc bộ nhà nghề – hai yếu tố cơ bản của KTTT nhà nghề vĩ mô. VĐV không những có quyền mà còn được tạo mọi điều kiện tốt nhất để sử dụng mọi khả năng, cơ hội tạo ra lợi nhuận từ việc chuyển nhượng trên thị trường chuyển nhượng VĐV. Các câu lạc bộ thông qua các hợp đồng chuyển nhượng, thi đấu, quảng cáo, bản quyền truyền hình… để tạo ra và từng bước tăng thêm lợi nhuận.